Có một câu nói vui thế này để nói về metalcore : Mai anh sẽ bỏ em ở nhà mà đi phá làng phá xóm ! Ví dụ như chạy lại vừa bấm chuông (é e è é e e é e è) vừa đập của ành-ành (nghỉ 1 nhịp) ành-tà-rành-tà-rành-ành-ành sau đó gào thêm vào vài tiếng man dại như : "For you are no longer alone - WALK WITH ME IN HELLLLLLLLLL"
Metalcore là một thể loại kết hợp những nhân tố từ thể loại hardcore punk và heavy metal. Từ này là ghép của heavy metal và hardcore punk. Trong khi từ được giải nghĩa vào cuối những thập niên 1990 (để miêu tả cho Earth Crisis),những nguyên tắc của thể loại này được thành lập vào năm 1989 với công sức của nhóm nhạc Integrity. Metalcore khác biệt với các thể loại punk metal khác vì sự nhấn mạnh của nó vào nhịp nghỉ của nó.
Ai đã từng nghe metalcore đểu có một cảm giác tưng tưng trong người bởi metalcore nghe rất nhộn đặc biệt là SLIPKNOT đôi lúc xem live mà phải phì cười.Với ảnh hưởng giai điệu của Swedish Melodic Death Metal. Một thể loại khó mà không khó nghe. Khó nghe vì nó là metal , và bạn không nghe metal thì khó cảm được ,không khó vì giai điệu và nhịp điệu của nó rất rõ ràng và có thể nói là rất extremely, chưa từng nghe qua Death Metal bạn vẫn có thể dễ dàng thích thể loại này như thường. Và chung lại, chỉ có 1 từ có thể dành cho nó : Kích động !
Xin mạn phép được giới thiệu sơ lược về một số band Metalcore đỉnh nhất hiện nay
As i lay dying
slipknot
all thats remain
bullet for my valentine
Killswitch Engage
Avenged sevenfold
Scar Symmestry
Em mới nghe có thế cao nhân nào biết chỉ thêm:
Một số thể loại :
Moshcore:
Những ca khúc ngắn với chất liệu đơn giản, gần gũi với kết cấu của nhạc Hardcore punk truyền thống của thập niên ''80 nhưng lối chơi guitar lại mang nặng âm hưởng của thrash metal.
Ban nhạc tiêu biểu: Hatebreed (nhóm metalcore cựu trào đã đặt được dấu ấn trong dòng chính thống, ca sỹ Jamey Jasta của nhóm là người dẫn chương trình Headbanger''s Ball trên kênh MTV2), Walls of Jericho (có ca sỹ nữ hot ngang ngửa em của Arch Enemy), Most Precious Blood, Bury Your Dead, Earth Crisis, All Out War.
Luôn sục sôi giận dữ giống như một con mãnh thú bị chọc tức - đó là Hatebreed.
Earth Crisis luôn là nhóm nhạc cổ động cho tinh thần sống "straight-edge" (sXe) thẳng thắn của hardcore ở thập niên ''''80.
Swedish metalcore hay còn gọi với tên lóng là Gothencore:
Chắc chẳng cần phải giải thích rõ lắm thì mọi người cũng có thể biết được đặc trưng của dòng này là như thế nào. Hãy lấy một chút chất liệu của Hardcore + những câu riff guitar nhanh và giàu giai điệu của Gothenburg metal + sử dụng những đoạn chorus hát bằng clean vocals = Gothencore
Những ban nhạc có ảnh hưởng lớn đến dòng này không ai khác ngoài những nhóm metal kỳ cựu của thành phố Gothenburg (Thuỵ Điển) như At the Gates, In Flames, Dark Tranquillity, ngoài ra cũng phải kể đến Meshuggah - một con khủng long khác của metal Thuỵ Điển.
Những gương mặt tiêu biểu của Gothencore: Killswitch Engage (tiên phong, khỏi bàn cãi!), Shadows Fall (chính xác là một nhóm Melodic death/Hardcore nhưng âm nhạc có nhiều nét tương đồng với nhánh này), God Forbid, Darkest Hour, All That Remains, Caliban, Heaven Shall Burn, Unearth, As I Lay Dying, It Dies Today, The Black Dahlia Murder, Lamb of God (được coi là "Slayer mới của metal Mỹ", âm nhạc nghiêng về Thrash nhiều hơn)...
Có thể nói đây là nhánh metalcore phổ biến nhất hiện nay, hầu hết các ban nhạc trong nhánh này đều đã có một năm 2004 thành công ngoài sức tưởng tượng!
Killswitch Engage - với thứ âm nhạc được mô tả một cách ngắn gọn ...It''s loud - it''s in your face and you can''t ignore it... "siêu nhóm" của underground hardcore scene đang có những đột phá mạnh mẽ vào dòng chính thống.
Shadows Fall - kể từ lúc bị metalheads chế giễu là "In Flames wannabes" cho đến khi trở thành một trong những nhóm metal được săn đón nhất tại Mỹ, họ vẫn luôn trung thành với phong cách giản dị: đi tour bằng xe bus, tự tay bán áo thun in hình ban nhạc, hỗ trợ hết mình cho các ban nhạc diễn chung, thân thiện và gần gũi với các fan...
Lamb of God - Slayer mới? Chơi ngày càng lên tay, đồng thời cũng gặp rắc rối với nhà chức trách bởi những màn kích động khán giả "trên cả quá khích" tại Ozzfest 2004...
Heaven Shall Burn đến từ nước Đức cùng với ban nhạc đồng hương Caliban đã chứng tỏ rằng không chỉ dân Mỹ mới biết chơi metalcore!
God Forbid - một trong những nhóm metal hiếm hoi mà các thành viên phần lớn là người da màu.
Mathcore (hay còn được gọi là Tech Hardcore, Chaotic Hardcore hoặc Noisecore)
Đây là nhánh metalcore mang nhiều tính chất cấp tiến (progressive) nhất, các ban nhạc trong nhánh này đều được nhận biết bởi lối chơi rất kỹ thuật, nhiều khi còn "phá cách" với những thử nghiệm kỳ quặc và "điên rồ". Hai "đại gia" cầm cờ tiên phong của Mathcore là The Dillinger Escape Plan (được mệnh danh là "Radiohead của metal") và Converge. Đặc trưng của Mathcore là những đoạn riff nghịch tai chịu ảnh hưởng rõ rệt từ grindcore, những cấu trúc bài hát và "mào đầu" khá phức tạp (làm cho độ dài của ca khúc có thể lên tới trên 15 phút!!!) và ca từ thì đôi lúc gần như "thách thức" chỉ số IQ của người nghe. Không những thế, các nhóm Mathcore còn tìm cách kết hợp cả những thể loại như blues rock, psychedelic và jazz vào thứ âm nhạc vốn dĩ đã rất "màu sắc" của họ. (Nhóm Coalesce đã từng cho phát hành một album cover lại toàn nhạc của Led Zeppelin mang tên ''''There is Nothing New Under the Sun'''' với sự cộng tác của The Dillinger Escape Plan ).
Những ban nhạc nổi bật của nhánh này: Zao, Norma Jean, Burnt By the Sun, Between the Buried and Me (
www.ttvnol.com/f_88/468442.ttvn), Isis, Misery Signals, Blood Has Been Shed, From The Second Story Window, Everytime I Die.
Các thành viên của The Dillinger Escape Plan đã lấy tên ban nhạc theo một trong những vụ án nổi tiếng nhất trong lịch sử FBI.
Everytime I Die đã chứng tỏ rằng Southern rock và Technical Noisecore có thể kết hợp rất hoàn hảo.
Còn đây là Between the Buried and Me...
Fashioncore:
Thuật ngữ này xuất hiện khoảng đầu những năm 2000, dùng để chỉ những ban nhạc Hardcore "trung dung", chịu nhiều ảnh hưởng từ các thể loại dường như "không đội trời chung" với Hardcore (alternative pop, hair metal). "Nhãn hiệu cầu chứng" của các ban Fashioncore là quần jeans bó sát (giống kiểu chị em ta hay mặc ), thắt lưng da màu trắng, đi giày nỉ Converse Chuck Taylor All-Stars (càng rách càng tốt), áo thun rẻ tiền và một mái tóc được "chăm sóc" kỹ càng . Fashioncore thường bị coi là một dòng nhánh nặng về hình thức, điệu bộ, nói chung là đi ngược lại với tinh thần phản kháng và tính đoàn kết của cộng đồng nhạc Hardcore, tuy nhiên các ban nhạc của nhánh này lại thu hút được nhiều sự quan tâm của giới truyền thông .
Những ban nhạc tiêu biểu: Atreyu, Eighteen Visions, Bleeding Through và Avenged Sevenfold.
Bleeding Through- quá bóng bẩy đối với chuẩn mực của hardcore!
Atreyu trình diễn tại Ozzfest 2004 - tay guitar Daniel Jacobs xuất hiện trong bộ dạng một fan nhiệt thành của nhóm hair metal "hết thời" Poison.
Emocore:
Đơn giản là Emo + Metalcore. Emo là một nhánh phụ của Hardcore punk, ra đời vào cuối những năm ''80. Cũng giống như tên gọi của nó (emo là từ viết tắt của emotion), dòng nhạc này rất giàu cảm xúc, được thể hiện qua lối trình diễn đa dạng của các vocalist và ca từ rất thi vị. So với Mathcore hay Moshcore thì Emocore dễ nghe hơn, nhưng nó lại tiến bộ hơn Fashioncore với sự giản dị trong phong cách và cảm xúc mãnh liệt trong âm nhạc. Tuy nhiên Emocore thường bị chê là "uỷ mị" vì nhiều khi giữa buổi diễn cả ban nhạc và khán giả đều khóc như mưa !
Những gương mặt nổi bật: Poison the Well, From Autumn to Ashes, Funeral for A Friend...
Poison the Well - "nhà thơ" của metal hiện đại.
From Autumn to Ashes - ẩn sau dáng vẻ khiêm nhường là những nghệ sĩ tài năng và luôn cống hiến hết mình cho người nghe.
Chống chỉ định khi đang đi trên đường ko nên nghe thể loại này vì rất dễ khiến bạn hưng phấn lao đầu vào oto hihihih